TỪ HUYỀN THOẠI YÊN TỬ ĐẾN HUYỀN THOẠI NÚI CẤM
Theo Wikipedia
Encyclopedia (Bách khoa từ điển Wikipedia ), huyền thoại được dịch từ chữ myth bắt nguồn từ “mythos” trong tiếng Hy
Lạp có nghĩa là một “câu chuyện”, một “ tác phẩm tự sự”. “Đó là những câu
chuyện mà một nền văn hoá nhất định tin là thực, những câu chuyện này sử dụng tâm
thức siêu nhiên để giải thích những hiện
tượng tự
nhiên, bản chất của vũ trụ và con người”.
Lịch sử Việt Nam có rất nhiều huyền thoại, từ huyền thoại Con
Rồng Cháu Tiên của thời tiền sử, lập quốc đến những huyền thoại thần thánh địa
linh nhân kiệt vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay.Trong
tâm thức của mỗi người dân Việt Nam ý niệm về sự linh thiêng, huyền bí thường
được đặt vào nơi núi rừng hiểm trở. Núi Yên Tử ở cực bắc và Núi Cấm một trong
những ngọn núi của Thất Sơn) của cực nam đã trở thành những biểu tượng văn hóa
tâm linh trong đời sống của người Việt.
Từ huyền thoại
về Yên Tử
Một trong những bộ sử đầu tiên ở nước ta còn lại
đến ngày nay là An Nam chí lược của Lê Tắc đã ghi chép khá rõ về Yên Tử: “Núi Yên Tử gọi là Yên Sơn hoặc Tượng Sơn, bề
cao lên quá tầng mây.Đầu niên hiệu Hoàng Hựu, nhà Tống (1049-1053), triều đình
lại ban tên Tử Y Đông Uyên. Đại sư là Lý Tự Thông có dâng lên vua hải nhạc danh
sơn đồ và vịnh thơ tán: Phúc Địa thứ tư tại Giao Châu là Yên Tử sơn.
Tân
kỳ chóp núi nêu vài nụ,
Yểu
điệu hình khe trổ một ngành.
Tiên
cỡi loan qua ngồi cảnh Tịnh,
Người
xem rồng xuống giỡn đầm xanh”.
Như vậy, đã có một sự xác định về mặt tâm linh
nào đó tồn tại dưới thời Lý, thời Trần về bốn ngọn núi ở Bắc Bộ mà Yên Tử là
phúc địa thứ tư trong bốn vùng đất được coi là “phúc địa của Giao Châu”.Yên Tử
là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo
Sừng sửng giữa những cánh rừng trùng điệp của
khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1.068 mét, vút lên chon von như một vọng
gác. Tên xa xưa của Yên Tử là núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu
về phía biển. Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng) bởi quanh năm đỉnh
núi chìm trong mây trắng.
Truyền thuyết cho rằng có một người nước Tề là
An Kỳ Sinh đến Yên Tử vừa tu đạo, vừa luyện thuốc trường sinh, lập chùa Ông Yên
còn gọi là Yên tự về sau gọi chệch thành Yên Tử như ngày nay. Từ đó, những am
nhỏ, chùa lớn được xây dựng nơi đây, nổi tiếng như chùa Phù Vân. Theo sách Thiền
Uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Ngài Thường Chiếu thuộc thế hệ thứ XIII của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu ở
chùa này vào cuối đời Lý.
Hệ thống chùa, am, tháp ở Yên Tử tập trung
trên sườn phía Nam của ngọn núi, phía Tây giáp với suối Vàng và phía Đông giáp
với thác Tử. Suối Vàng , thác Tử đều xuất phát từ độ cao 700mét, cạnh chùa Vân
Tiêu, chảy quang co xuống chân núi, rồi hợp dòng với nhau dưới gốc cây sung cổ
thụ và đổ vào suối Giải Oan. Trong hành trình lên núi Yên Tử, người ta sẽ đi
qua hệ thống kiến trúc phân bố theo quan niệm đạo Phật như sao:
Giải Oan – Vân yên – Vân tiêu – Bia Phật
Trần gian – Lưng Trời – Cung Trời –
Ngoài trời
Mỗi thắng cành đều có kèm những huyền thoại những
truyền tích nhuộm màu huyền bí. Đó là huyền thoại về hang Tiền, hang Gạo, là dấu
chân Phật, bàn cờ tiên, phía xa kia là câu chuyện cảm động về Vũng Chị, Vũng
Em, núi Hàm Rồng, Giếng Cần… Theo nhiều tài liệu, chùa Am Vãi được xây dựng từ
thời Lý nằm trong hệ thống các chùa tháp theo sườn tây Yên Tử. Tương truyền vào
thời Trần có sư nữ (Công chúa nhà Trần) tu hành ở đó. Bởi vậy, chùa mới có tên
là Am Vãi (Vãi có nghĩa là nữ tu hành). Ở đây có Hang Tiền và Hang Gạo. Truyền
thuyết kể: Mỗi ngày hai hang chỉ chảy ra một lượng tiền và gạo đủ cho vị sư này
dùng mà không chảy hơn. Đến một ngày vị sư nọ có khách, liền khơi cho hang tiền
và gạo chảy ra đủ hai người dùng. Từ đó tiền và gạo ở hai hang này không bao giờ
chảy ra nữa… Ngoài ra, gần khu vực chùa còn có hai giếng nước quanh năm không cạn,
hai bên có hai cụm đá lớn in dấu bàn chân Phật gắn cùng những câu chuyện tâm
linh.
Không phải vô cớ khi chính các vua đầu đời Trần lại chọn Yên
Tử làm nơi tu tập của mình, bởi vì các vị đó không thể không biết đó là phúc địa(đất
phúc). Trong sách Văn thơ Ngô Thời Nhiệm có ghi: “Người ta thấy Điều Ngự đệ Nhất
tổ đến Chùa Hoa Yêm thì bảo là Ngài xuất gia, ta (tức Ngô Thời Nhiệm) biết rằng
đức Ngài lúc bấy giờ biết xem thiên hạ
là công, trong nước vô sự, nhưng ở phía bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ,
chưa được an tâm. Các ý ấy không nên nói rõ, sợ người dao động. Cho nên nhằm được
ngọn núi Yên Tử, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa
mối lo nước ngoài xâm phạm, thật là một vị Vô lượng đại thế chí Bồ tát”
Thật thế, Quảng
Ninh là tỉnh duy nhất ở Việt Nam có đường biên giới cả trên bộ và trên biển với
Trung Hoa. Sách “Đại Nam nhất thống chí” (quyển XVIII, trang 13) đã xác định vị
trí địa chính trị của tỉnh Quảng Ninh như sau : “Đất nhân thế núi mà làm thành,
dựa chỗ cao mà giữ hiểm, có núi để dựa, có biển vòng quanh, địa thế xa lánh mà
xung yếu, trong thì giữ vững cương vực, ngoài thì khống chế đất Thanh”[1].Vị trí địa chính trị quan
trọng của Quảng Ninh có tính chiến lược được xác lập qua hàng ngàn năm tồn tại
và phát triển đất nước, một pháo đài then chốt ở vùng đông bắc, với địa hình
núi non hiểm trở, biển đảo quanh co như một lá chắn sừng sửng, thuận lợi khi
phòng thủ cũng như lúc tấn công. Và Yên Tử một ngọn núi cao của Quảng Ninh với
đầy huyền thoại mà tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân
Tông đã từng có 19 năm tu rất khắc nghiệt. Di tích chùa Cầm là để tưởng nhớ tới
việc ngài chỉ uống nước cầm hơi, không ăn uống gì vừa để chứng tỏ nơi này vừa
là địa linh để tu đắc đạo vừa để giữ nước.
Nước Đại Việt mở rộng
về phương Nam, cuối biên giới Việt Nam lại sừng sửng bảy ngọn núi hùng vĩ, một
Thất sơn huyền bí với hàng trăm câu chuyện thần bí trong đó Núi Cấm tồn tại nhiều
huyền thoại linh thiêng.
Đến huyền thoại về Núi Cấm
Giữa đồng bằng Nam Bộ, Núi Cấm ở Tịnh Biên (An
Giang) là ngọn núi cao nhứt, cao 716 mét, chu vi gần 30 ngàn mét. Núi còn được
dân gian gọi là núi Ông Cấm, Thiên Cẩm Sơn (đẹp như gấm trời), Bạch Hổ Sơn (hổ
bị mây phủ trắng). Tên chữ Khmer là Pnom Ta peil hay Pnom Popiel (núi có màu sắc
sặc sỡ)
Sách “Đại Nam nhất thống
chí” được biên soạn vào cuối thế kỷ 19 miêu tả về núi Cấm: ...Thế núi cao ngất,
cây cối tươi tốt, là một trong Bảy Núi. Vì núi cao nên ít người lên đến chót. Cấm
Sơn hay Núi Cấm là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trong sách
này.
Núi Cấm có nhiều vồ (hoặc
non). Theo Nguyễn Văn Hầu
năm non trên núi Cấm bao gồm:
“ - Vồ Bồ Hong: cao 705 m, cao nhất. Tương
truyền, vì khi xưa có nhiều côn trùng gọi là bồ hong đến đây sinh sống nên có
tên này. Ở trên vồ, có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, được
nhiều người đến tham quan và lễ bái.
-
Vồ Đầu: đỉnh cao đầu tiên của
Núi Cấm tính từ phía Bắc, cao 584 mét.
-
Vồ Bà: cao 579 m, có điện thờ Bà
Chúa Xứ.
-
Vồ Ông Bướm: (hay Ông Voi) cao
480 m tương truyền xưa kia có hai người Khmer lưu lạc tên ông
Bướm và ông Vôi đến cư trú, nên mới có tên như thế.
-
Vồ Thiên Tuế: cao 541 m, nơi đây
trước kia là rừng cây thiên tuế.
Thực tế, núi Cấm còn có nhiều vồ hơn nữa, như Vồ Chư
Thần, Vồ Cây Quế, Vồ Mồ Côi, Vồ Đá Dựng, Vồ Pháo Binh, Vồ Bạch Tượng v.v...
Nhưng người ta thường chỉ nói năm non, bảy núi. Những con số bất
dịch này, chắc do sự tác động của những quan niệm thần bí, siêu nhiên trong dân
gian...”
Dọc theo những lối mòn từ chân núi lên tới đỉnh
có nhiều nơi dừng chân tuyệt đẹp: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện
Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ, hang Bác Vật
Lang, động Thủy Liêm. Những địa điểm này đều có những huyền thoại ly kỳ được
truyền tụng từ xưa đến nay.
Những giai thoại truyền thuyết từ núi Cấm qua
thời gian, dân gian đã xem núi Cấm là nơi hội tụ những gì linh thiêng huyền bí
mà người đời truyền tụng mà đỉnh điểm cho rằng núi Cấm là địa linh, là nơi phát
xuất, khai hội Long Hoa lập đời mới. Những câu chuyện huyền bí trong núi như:
các ông Đạo quy ẩn tu thành Tiên, bác vật Lưu văn Lang, một người tinh thông địa
lý ở Nam kỳ bị cấm khẩu khi khám phá hang động, câu chuyện về thần Bạch Hổ hiển
linh, câu chuyện về nhà sư trị rắn cắn bằng ngải, những lời nguyền về núi Cấm
…Câu chuyện về Đức phật thầy Tây An đã cấm các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương lên núi
cất nhà hoặc chùa am vì sợ có người ăn ở tất sẽ gây ô uế núi non, một nơi địa
linh mà Phật Thầy nhận thấy cần gìn giữ cho trong sạch.
Núi Cấm trở thành trung tâm của sự linh
thiêng, huyền bi từ tâm thức người dân Nam bộ mà Thất sơn, trong đó có Núi Cấm
đã hình thành nên đạo Bữu Sơn Kỳ Hương và các tôn giáo nội sinh sau này như Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo.
Núi Cấm rộng lớn và có nhiều điều kỳ thú mà hiện nay là một trong những điểm du lịch nổi tiếng . Đây là điểm
hành hương đặc sắc ở huyện Tịnh Biên, vào tháng giêng rất đông khách đến viếng.
Khu “cao nguyên núi Cấm” là khu “lòng chảo” bằng phẳng, nằm ở độ cao khoảng 600
mét ở trung tâm núi; hồ Thủy Liêm, một cái hồ bất chợt hiện ra giữa khung cảnh
núi rừng đại ngàn, là hồ nước nhân tạo rộng lớn, vừa cung cấp nước cho người
dân trên núi, vừa tạo cảnh quan phục vụ du lịch..… tất cả dường như làm tôn lên
vẻ đẹp huyền ảo của ngọn núi này.
Tượng Phật Di Lặc cao 33,6 mét vững chãi trên
diện tích hơn 2 ha đã được công nhận là tượng Phật trên núi lớn nhứt Châu Á vào
năm 2013. Là một công trình nghệ thuật tôn giáo độc đáo và đồ sộ, tượng khắc
họa tinh tế gương mặt an nhiên và nụ cười từ bi của Phật, sống động và hài hòa.
Bên trái tượng Phật Di Lặc là chùa Phật Lớn được ông Bảy Do - một nhân sĩ yêu
nước lập vào đầu thế kỷ XIX với tên gọi là Nam Cực Đường, vừa là nơi tu hành,
vừa là trụ sở bí mật của Hội Kín chống Pháp. Trong Chùa có bức tượng tạc dáng
Phật ngồi kiết già rất đẹp và phúc hậu, cao 1,8 mét. Trong thời gian trước
tượng này lớn hơn tượng ở các chùa xung quanh nên người dân gọi là chùa Phật
Lớn.
Đối diện chùa Phật Lớn là chùa Vạn Linh, nằm
bên phải tượng Phật Di Lặc. Gần chùa Vạn Linh có một con đường lên vồ Bồ Hong
(đỉnh núi). Mặc dù đường khá dốc, nhưng nơi đây luôn điểm mà du khách thường
không bỏ qua khi đến núi Cấm. Trên đỉnh có điện thờ Cửu Huyền, điện thờ Phật
Mẫu và điện thờ Ngọc Hoàng lúc nào cũng khói hương nghi ngút.
Khí hậu trên
núi Cấm chịu ảnh hưởng nhiệt đới gió mùa, vào mùa xuân, cây cối xanh tươi sản vật
dồi dào, khí hậu mát mẻ trong lành.Từ trên các đỉnh cao có thể phóng tầm mắt
nhìn toàn cảnh đồng lúa mênh mông đến tận vùng biển Hà Tiên và biên giới tây nam.
Với đường
biên giới giáp Campuchia dài gần 100 km, mà Tịnh Biên là miền biên giới tây nam
của đất nước cũng là vùng đất mới trong tiến trình mở cõi về phương Nam của cha
ông ta. Tại núi Cấm, tín ngưỡng và văn hóa dân gian phát triển đa dạng, các
tông phái Phật giáo và tôn giáo địa phương ra đời, nhiều truyền thuyết huyền
thoại nặng yếu tố tâm linh huyền bí, đặc biệt lồng ghép với các phong trào và
các cuộc khởi nghĩa yêu nước chống xâm lược. Những cuộc kháng chiến chống Pháp do Quản cơ
Trần Văn Thành kiên cường trên vùng tây nam của tổ quốc, cuộc khởi nghĩa của
Ngô Lợi, trong kháng chiến chống Mỹ núi Cấm là nơi trú quân của lực lượng Giải
phóng là bàn đạp bảo vệ Bảy Núi và nối thông tuyến biên giới Campuchia.
Nhà thơ Kiên giang Hà Huy Hà trong bài “Lúa sạ
miền Nam” đã viết:
Bằng tay thép
với đôi chân tượng đá
Những người xưa
khai phá địa đàng xanh
Sừng sững
Thất Sơn một dãy trường thành
Chim mõi cánh
vẫn bay vào bóng mát
Ghi công đức
Thoại Ngọc Hầu thuở trước
Người xưa
bảo: đây là vùng đất Phước
Đất oai hùng
toàn nhân kiệt, địa linh …
Đặc tính chung của huyền thoại Yên Tử và huyền thoại Núi Cấm
Trong nhiều
thế kỷ qua, không ai có thể phủ nhận những nhân tố tích cực mà tín ngưỡng, tôn
giáo đã mang lại cho đời sống văn hóa tinh thần của các dân tộc. Đóng góp của
tín ngưỡng tôn giáo đối với đời sống xã hội thể hiện trong nhiều lĩnh vực. Những
giá trị đạo đức tôn giáo không chỉ góp phần nâng cao nhận thức cho từng cá
nhân, tín đồ mà quan trọng hơn là góp phần ổn định xã hội.
Thế kỷ thứ
XIII, dân tộc ta đã đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng như
không thể vượt qua được. Song, bằng tài năng đức độ của mình, các vua Trần đã động
viên sự đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc để đánh bại kẻ thù, đem lại sự bình yên cho dân tộc. Tư tưởng yêu nước
thân dân đã trở thành nền tảng cho sự ổn định xã hội, xây dựng vương triều và
phát huy nội lực để ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên-Mông. Sự kết hợp giữa
tư tưởng Phật giáo và tư tưởng nho giáo trong chính sách nội trị đã tạo nên sự
đoàn kết dân tộc, vừa thực hiện mục đích giải thoát về mặt tâm linh, tăng cường
sức mạnh cho dân Việt thời bấy giờ.
Đầu thế kỷ
XIX, cuộc Nam tiến của người Việt dừng lại nơi Tịnh Biên. Bên cạnh hình thức
khai hoang do chính quyền tổ chức hay do người dân tự tiến hành thì những cuộc
khẩn hoang do tín đồ tôn giáo Bửu sơn Kỳ hương là đáng chú ý hơn cả, nó góp phần
tích cực tạo nên những yếu tố riêng biệt, đa dạng thêm cho vùng đất được gọi là
địa linh này.
Cả hai vùng đất
được gọi là linh thiêng đều xuất hiện hai vị Phật Việt Nam tạo nên hai môn phái
Phật giáo là Phật giáo Thiền tông Trúc lâm Yên Tử mà vị giáo chủ là đức Phật
hoàng Trần Nhân Tông, và tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, với Đức Giáo chủ là Phật
Thầy Đoàn Minh Huyên. Huyền thoại về sự đắc đạo của hai vị này tại núi Yên Tử
và Thất Sơn đã biến hai ngọn núi của hai tuyến đầu bắc, nam Việt Nam thành nơi
Thánh Địa.
Sự phát triển của Phật giáo thời Trần đã tạo
nên sắc thái riêng của nền văn hóa thời kỳ này: một đội ngũ thiền sư xuất thế để
nhập thế. Cũng như thế từ vùng đất Thất Sơn huyền bí, vùng đất mà Lê văn Siêu
đã viết:
“Trên mảnh đất gần như tiền định này trong việc
nhào nặn và tổng hợp mọi trào lưu tư tưởng và mọi đạo giáo, đã có sự pha trộn
dòng máu của người Hồ Tôn, người Chăm, người Phù Nam, người Thủy Chân Lạp, người
Khmer, người Chà Và, người Tàu, người Việt (ở các vùng biển và đồng bằng), người
Ấn Độ…Khoảng 1849 lại có Phật Thầy Tây An xuất thế sáng lập ra dòng tu Bửu Sơn Kỳ Hương với cái mộng khai hội
Long Hoa báo hiệu một thời Thượng Ngươn cho loài người.
“Cũng truyền thống thần bí ấy đã xuất hiện những
giáo phái khác nữa, lúc bình thường thì tu hành, lúc gặp biến thì chuyển thành
lực lượng chính trị võ trang.
“Cái biết thần bí, nhất là ở miền Nam như vậy
quả đã là một nhận thức quan đặc biệt của dân tộc…” [2]
An Giang là một tỉnh
cực nam của Việt Nam có đường biên giới chung với Campuchia. Quảng Ninh cũng là
một tuyến đầu của vùng cực bắc giáp với Trung Hoa. Núi Yên Tử và Núi Cấm là hai
ngọn núi cao nhất tại hai tỉnh thành này. Vị trí địa lý của hai ngọn núi có thể
là những chốt chặn để bảo vệ biên giới.
Điều đặc biệt là
các nhà lãnh đạo từ xưa đến nay kể cả tầng lớp nhân dân đều dùng tín ngưỡng,
tôn giáo để bảo vệ các nơi hiểm trở đó. Phật giáo thiền tông thời Trần ở Yên Tử
có thái độ xuất xử của những người tu học (điển hình là vua Trần Nhân Tông) là
thời bình thì an nhàn, tu tịnh, khi có họa xâm lăng sẳn sàng bỏ áo cà sa để ra
chiến trận. Cuộc khởi nghĩa của Trần Văn Thành, một lãnh tụ của Bửu sơn Kỳ
hương cũng thế, cũng đã thể hiện thái độ xuất xử của người tu học theo Phật
giáo Việt Nam. Thánh nhân và anh hùng, triết lý đó hòa quyện trong mỗi người
dân Việt Nam tùy thời thế cơ mà ứng xử.
Yên Tử và Núi Cấm
theo huyền thoại đều là những nơi địa linh, mà địa linh thì sinh anh kiệt. Anh
kiệt để bảo vệ đất nước và Thánh nhân để xây dựng một nền văn hóa tâm linh trường
cữu.
Miền bắc Việt Nam có Yên Tử, miền nam Việt Nam
có Núi Cấm (một trong Thất Sơn) với những huyền thoại bàng bạc trong lịch sử tại
hai vùng này để khẳng định Việt Nam cũng có Thánh linh, có những tôn giáo thuần
thành từ bản sắc văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa tổng hợp biết xuất xử tùy thời,
tùy cơ để bảo vệ quyền độc lập, tự chủ cho đất nước.
Điểm giống nhau cuối
cùng của Núi Yên Tử và Núi Cấm là trong thời bình, hàng ngàn, hàng vạn người
dân Việt mỗi năm đều hành hương đến hai vùng đất này để chiêm bái các di tích
linh thiêng mà trong tâm thức nguời Việt, còn lưu dấu một quan niệm về sự tồn tại
của một thế giới siêu nhiên, làm mẫu mực cho cuộc đời này huớng tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
2.
Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng
(Southern Vietnam under the Reign of Minh Mạng), dịch: Hoàng Anh Tuấn,… Nguyễn
Thừa Hỷ hiệu đính, nxb Thế Giới, H.
3. Hà Tân Dân
(1971), Tứ Ân Hiếu Nghĩa, tủ sách sưu khảo sử liệu, Phật giáo Bữu Sơn Kỳ Hương,
4.
Đại Nam Nhất thống chí(1959) dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Lục tỉnh
Nam Việt, tập Thượng.
5.
Đinh văn Hạnh (1996), Bửu Sơn Kỳ Hương với cuộc kháng chiến chống
Pháp- luận văn Tiến sĩ, viện KHXH TPHCM.
6.
Nguyễn văn Hầu (1955), Thất sơn mầu nhiệm, nxb Liên Chính. S.
7.
Vương Kim và Đào Hưng , Đức Phật Thầy Tây An, nxb Long Hoa, S. in
lần hai.
8.
Léopold Pallu de la Barrière(1888), Histoire de l`Expédition de
Cochinchine en 1861, , nxb Berger-Levrault,Paris, Nancy.
9.
Sơn Nam(1992), Cá tính miền Nam,nxb Văn Hóa, H
10.
Lê văn Siêu (1964), Văn Minh Việt
Nam, nxb Nam Chi Tùng Thư. S.
11.
Phạm văn Sơn(1962), Việt sử tân biên,quyển V,tác giả tự xuát bản,
Sài Gòn
12.
Thi Sảnh, Quảng Ninh miền đất hững trầm tích, nxb Trẻ,
2000,TP. HCM
13.
Paulin Vial, Les premières années de la Cochinchine, quyển I
14.
Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, nxb TP HCM, 2000
15.
Tạ Chí Đại
Trường (1989), Thần, Người và Đất Việt, nxb Văn Học, H.
16.
Tạp chí Sử Địa (1970),số 19-20,Nguyễn văn Hầu, Sự thôn thuộc và
khai thác đất Tầm Phong Long, chặng cuối cùng của cuộc Nam Tiến.
Chưa có bình luận nào.
Gửi bình luận